Bạch hầu là một bệnh nhiễm trùng nhiễm độc do trực khuần Bạch hầu gây ra (Corynebacteriumdiphthria). Vi khuẩn tiết ra ngoại độc tố gây tổn thương nhiều tổ chức và cơ quan của cơ thể. Bệnh lây truyền dễ dàng qua đường hô hấp hoặc qua tiếp xúc trực tiếp với các dịch tiết từ niêm mạc mũi họng của bệnh nhân hoặc người lành mang trùng khi ho, hắt hơi, đặc biệt trong khu vực dân cư đông đúc hoặc nơi có điều kiện vệ sinh không đảm bảo.
Dấu hiệu và triệu chứng của bệnh:
+ Bạch hầu thể đau họng: sốt nhẹ, đau họng, ho, khan tiếng, chán ăn. Sau 2-3 ngày, xuất hiện giả mạc hai bên thành họng, có màu trắng ngà, xám, đen, dai, dính, dễ chảy máu. Bệnh có thể qua khỏi hoặc trở nên trầm trọng và tử vong trong vòng 6-10 ngày.
Trường hợp bệnh nặng không có biểu hiện sốt cao nhưng có thể sung cổ và làm hẹp đường thở.
Biến chứng của bệnh: Độc tố bạch hầu có thể gây các tổ thương sau:
- Viêm cơ tim, tổn thương hệ thần kinh dẫn truyền cơ tim, tử vong do đột quỵ trụy tim mạch.
- Một số bệnh nhân bị viêm cơ tim và van tim, sau nhiều năm gây ra bệnh tim mãn và suy tim.
- Thoái hóa thận, hoại tử ống thận, chảy máu lớp tủy và vỏ thượng thận.
- Tắc nghẽn đường hô hấp và gây tử vong trong vòng 6-10 ngày.
- Để chủ động phòng chống bệnh bạch hầu, khuyến cáo người dân cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
- Đưa trẻ đi tiêm chủng vắc xin phối hợp phòng bệnh bạch hầu:
- DPT-VGB-HIb(SII)hoặc DTP, Td đẩy đủ, đúng lịch.
- Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, che miệng khi ho hoặc hắt hơi, gữi vệ sinh thân thể, mũi, họng hàng ngày, hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh hoặcnghi ngờ mắc bệnh
- Đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ có đủ ánh sáng.
- Khi có dấu hiệu bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu phải được cách ly và đưa đến cơ sở y tế để được khám, điều trị kịp thời.
- Người dân trong ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc ống thuốc phòng và tiêm vắc xin phòng bệnh!.