Thờ bánh chưng ngày Tết trở thành nét văn hóa truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam, được lưu truyền từ xa xưa (tục truyền từ đời Hùng vương thứ sáu) đến tận ngày nay. Tục gói bánh chưng thờ cúng tổ tiên nhằm tôn vinh khẳng định tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hóa lúa nước.
Theo truyền thuyết “Bánh chưng, bánh dầy”, Vào đời Hùng Vương thứ 6, nhân dịp giỗ tổ vua Hùng đã triệu tập các quan Lang (các con của nhà vua) đến và truyền rằng: vị quan Lang nào tìm được món lễ vật dâng lên tổ tiên hợp ý với nhà vua sẽ được nhà vua nhường ngôi. Các vị quan Lang lên rừng, xuống biển tìm châu ngọc và các sản vật quý để làm lễ vật dâng lên nhà vua. Lang Liêu là người nghèo khó nhất trong số các vị quan Lang, chàng không thể tìm những sản vật quý hiếm về dâng vua cha, chàng đã dùng những nông sản thường ngày gồm gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn và lá dong để tạo ra hai loại bánh Chưng và bánh dầy tượng trưng cho trời và đất làm lễ vật dâng vua. Lễ vật của Lang Liêu rất hợp ý vua Hùng, và vua đã truyền ngôi cho Lang Liêu. Từ đó bánh Chưng, bánh dầy đã trở thành lễ vật không thể thiếu trong các nghi thức thờ cúng tổ tiên, để thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn đối với cha ông.
Một điều cũng hết sức độc đáo của bánh chưng đó là thời gian luộc bánh lên tới 10 tiếng đồng hồ. Bao thế hệ người Việt sẽ không thể quên kỉ niệm những đêm giáp Tết lạnh thức thâu đêm ngồi trông nồi bánh bên bếp lửa hồng, với những củ khoai được vùi sâu trong bếp với than hồng rực . Bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong mọi mâm cơm ngày Tết. Những mâm cơm cúng dâng lên tổ tiên vào 3 ngày Tết không thể thiếu bánh Chưng. Mâm cơm mang ra mời khách đều có sắc màu xanh mướt của bánh Chưng, mỗi gia chủ đều muốn mời khách thử bánh Chưng nhà mình , đó được coi như một điều may mắn với gia chủ và như một lời chúc “ăn nên làm ra”.
Bánh chưng là món bánh Tết đặc trưng của các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ. Tại các tỉnh miền Nam, món bánh phổ biến trong những ngày Tết là bánh Tét, một loại bánh hình trụ tròn, được gói bằng lá chuối, với nguyên liệu là gạo nếp, thịt lợn và nhân bánh làm từ đỗ xanh, đỗ đen hay chuối. Hương vị của bánh Tét cũng không khác nhiều so với bánh Chưng. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng do sự đối đầu giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn vào cuối thời nhà Lê, nên các chúa Nguyễn đã cho nhân dân “đàng Trong” làm bánh Tét để tạo ra sự khác biệt với bánh Chưng của “đàng Ngoài”.
Hòa cùng sự phát triển của xã hội, bánh Chưng cũng ngày càng trở nên phong phú về kích cỡ và hương vị. Tại những sạp bánh ở khắp các khu chợ, từ nông thôn tới thành thị, bạn có thể lựa chọn cho mình các loại bánh Chưng từ loại to đến loại nhỏ, với vị mặn hay ngọt , cũng có thể mua bánh chưng chay dành cho người ăn chay tùy từng người mà chọn cho mình loại bánh chưng phù hợp với khẩu vị.